Phim Phật Giáo Đạt Ma Sư Tổ

Phim Phật Giáo Đạt Ma Sư Tổ

© Copyright 2014 hinhphat.com, All rights reserved

HĐGS liên ngành Xây dựng - Kiến trúc

Tài liệu này tóm lược những yếu tố thành công của tổ chức Phật Giáo Tây Tạng FPMT (Foundation for the Preservation of the Mahayana Tradition, tạm dịch là Tổ Chức Bảo Tồn Truyền Thống Đại Thừa) mà chúng tôi đã học hỏi được trong 13 năm qua. Chính nhờ vào sự góp sức của hàng Phật tử tại gia mà Lama Yeshe và Lama Zopa đã thành lập được tổ chức FPMT (https://fpmt.org) có tầm vóc quốc tế mà hiện nay có tới 164 ngôi chùa (Trung Tâm Tu Học Phật Pháp) ở 40 quốc gia trên thế giới. Phật Giáo Tây Tạng không nằm trong hoàn cảnh như Phật Giáo Việt Nam là phải dồn nỗ lực vào việc đáp ứng nhu cầu tâm cho người tị nạn vì người dân tị nạn Tây Tạng ở Mỹ cho đến năm 2008 chỉ có khoảng 9,000 người.  Trong hoàn cảnh này, Những cơ sở và những tổ chức Phật Giáo Tây Tạng như FPMT đã có thể dồn hết nỗ lực vào việc hoằng Pháp cho nhười Mỹ nên đã đạt được nhiều thành quả trong lãnh vực này.

Một trong những khác biệt của Phật Giáo tị nạn Tây Tạng và Phật Giáo đến Mỹ qua các dân định cư khác như Trung Hoa, Nhật, Đại Hàn trước đây là mục đích hoằng pháp. Theo lịch sử Mỹ thì mục đích Phật Giáo của người định cư là để đáp ứng nhu cầu tâm linh trong phạm vi của dân tộc họ, trong khi mục đích của Phật Giáo tị nạn Tây Tạng là thiết lập một nền giáo dục Phật Pháp có thể hòa nhập vào xã hội của các nước tân tiến trên toàn thế giới. Sự khác biệt này đã đưa đến kết quả là hầu hết các chùa và những cơ sở Phật Giáo được thành lập bởi các dân định cư như Trung Hoa, Nhật, Đại Hàn đến Mỹ trước đây đều không còn tồn tại đến ngày nay ngoại trừ những ngôi chùa đã được chuyến hóa để hòa hợp với xã hội Mỹ hoặc đã được thành lập sau này, trong khi đó Phật Giáo Tây Tạng đã thiết lập được một nền giáo dục Phật Pháp vững chắc có thể tồn tại và phát triển lâu dài ở Mỹ và trên thế giới.

Phật Giáo Tây Tạng có nhiều tông phái nhưng những tông phái được nhiều người biết đến là phái Nyingmapa, Kadampa, Kagyu, Sakya, và Gelugpa. Trong những phái này thì phái Gelugpa hay còn được gọi là Phái Mũ Vàng là tông phái lớn và nổi tiếng nhất ở Tây Tạng được sáng lập bởi Lama Tsongkhapa (1357-1419) và do Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 hiện đang trì giữ. Tuy Phật Giáo Tây Tạng có khác Phật Giáo Việt Nam về phần hình thức và nghi lễ, nhưng căn bản giáo lý thì không khác ngoài giáo lý Kim Cang Thừa dành riêng cho những hành giả muốn tu về Mật Tông. Đức Đai La Lama đời thứ 14, Lama Zopa Rinpoche và các Thầy Tây Tạng thường thuyết giảng giáo lý Đại Thừa.

Tổ chức FPMT là một thành công của phái Gelugpa trong việc hoằng dương Phật Pháp trên thế giới nói chung và tại Mỹ nói riêng. Tổ chức này hiện có 164 Trung Tâm Tu Học ở 40 quốc gia trên thế giới trong đó có hơn 20 Trung Tâm Tu Học Dài Hạn (Retreat Facilities). Tổ chức FPMT được thành lập từ năm 1975 bởi Lama Thubten Yeshe (1935-1984) và người đệ tử là Lama Thubten Zopa Rinpoche. Sau khi Lama Yeshe qua đời tại Mỹ vào năm 1984, Lama Zopa Rinpoche hiện là vị Thầy lãnh đạo tinh thần của Tổ chức này.

Những Bước Đầu Của Sự Chuyển Hóa

Ngay từ năm 1965, sau khi rời Tây Tạng đến tị nạn ở Nepal, Lama Yeshe và Lama Zopa đã nhận biết là người Tây phương chỉ đến với đạo Phật sau khi họ thấy được sự lợi lạc của Phật Pháp, nên hai Thầy đã bắt đầu dạy thiền tập (meditation course) cho các khách du lịch đến Nepal như một phương tiện để đưa họ vào đạo. Theo truyền thống Phật Giáo Tây Tạng và của Tu Viện Sera thì chỉ có các Tu Sĩ đã có căn bản Phật Pháp mới hành thiền chứ không dạy cho hàng Cư Sĩ, vì vậy việc hai Thầy dạy thiền tập cho các khách du lịch trong thời gian đó đã gặp rất nhiều chống đối cũng như không nhận được một sự ủng hộ hay giúp đỡ nào của cộng đồng Phật Giáo Tây Tạng tị nạn tại Ấn Độ và Nepal, và của chính phủ lưu vong Tây Tạng. Với một ý chí kiên trì, hai Thầy đã giữ vững quyết định của mình, tự lực vượt qua được những khó khăn lúc ban đầu này. Cho đến bây giờ, sau hơn 50 năm, lớp học Thiền Phật giáo 101 (Buddhist Meditation 101) vẫn là lớp học đầu tiên rất quan trọng của tổ chức FPMT.

Sau khi người Tây Phương thấy được sự lợi ích của Phật Pháp qua thiền tập, họ sẽ tích cực tu học từng giai đoạn của con đường trung đạo đưa đến giác ngộ theo giáo lý đại thừa (Lam Rim). Tuy có rất nhiều Thầy Tây Tạng ngồi thiền im lặng trong phòng riêng của họ và các vị Lama thường viên tịch trong thiền định, nhưng tại những tu viện Tây Tạng như Tu Viện Sera ở Ấn Độ không có những buổi ngồi thiền chung của các Thầy với nhau. Thay vào đó, Phật Giáo Tây Tạng rất chú trọng vào thiền định phân tích (analytical meditation). Có rất nhiều vị Lama và các Thầy ngộ đạo trong khi họ đang tranh luận hay nghiên cứu.

Đến năm 1969, Lama Yeshe và Lama Zopa cùng người đệ tử là bà Rachevsky đã đứng ra thành lập trung tâm Nepal Mahayana Gompa Centre (hiện nay là tu viện Kopan ở Nepal). Sau đó một thời gian ngắn thì bà Rachevsky qua đời. Trong khoảng thập niên 1970 đã có rất nhiều người Tây phương và khách du lịch đến học tại tu viện Kopan.

Khúc quanh lịch sử của sự chuyển hóa được ghi nhận là vào năm 1973 khi Lama Yeshe thọ giới xuất gia cho 14 người Phật tử Tây phương đầu tiên. Cũng trong khoảng thời gian này, các Phật tử tại gia học trò của hai Thầy đã trở về nước họ và thành lập những Trung Tâm Tu Học Phật Pháp tại nhiều quốc gia trên thế giới.

Người Mỹ nghe nói nhiều về Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14, nhưng ít người biết đến những hoạt động của Lama Yeshe và Lama Zopa đã góp sức xây dựng nền tảng Phật Giáo Tây Tạng ở Mỹ hơn 10 năm trước khi Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 đến thăm nước Mỹ lần đầu tiên vào năm 1979.

Trong phạm vi của bài viết này, chúng ta hãy tìm hiểu tại sao hai Thầy tị nạn Tây Tạng không có khả năng tài chánh lại có thể thành lập được một tổ chức Phật Giáo có tầm vóc quốc tế mà hiện nay có tới 164 Trung Tâm Tu Học Phật Pháp ở 40 quốc gia trên thế giới.

Chuyển Hóa Cơ Cấu Điều Hành

Như đã trình bày ở phần trên, năm 1973 các Phật tử tại gia học trò của Lama Yeshe và Lama Zopa tại tu viện Kopan đã trở về nước họ và thành lập những Trung Tâm Tu Học Phật Pháp tại nhiều quốc gia trên thế giới. Để hướng dẫn và phát triển những trung tâm này, Lama Yeshe và Lama Zopa đã thành lập tổ chức FPMT vào năm 1975. Lama Yeshe và Lama Zopa, có tầm nhìn xa, nhận thấy hệ thống tổ chức Tu Viện và các sinh hoạt tu tập của phái Gelugpa không hợp với người Tây Phương và khó có thể thể hòa nhập được vào xã hội của các nước tân tiến trên thế giới, nên hai Thầy đã khéo léo rút tỉa những tinh hoa của một hệ thống sinh hoạt tu viện Tây Tạng đã có từ hàng ngàn năm để thành lập tổ chức FPMT với một cơ cấu điều hành như một cơ sở hiện đại của người Tây Phương và, về phần hình thức, hoàn toàn khác xa với hệ thống Tu Viện Tây Tạng.

Một trong những quyết định quan trọng của Lama Yeshe và Lama Zopa là thay vì gởi các Thầy Tây Tạng lúc đó đang tị nạn tại Nepal và Ấn Độ đi làm Thầy Trụ Trì ở những Trung Tâm Tu Học, hai Thầy đã thành lập tổ chức FPMT với một nội quy là tất cả các Trung Tâm Tu Học của tổ chức này (FPMT Centers), ngoài một số trường hợp đặc biệt, đều được thành lập, quản trị và điều hành bởi các Cư Sĩ (Phật tử tại gia). Tất cả chư Tăng, hầu hết đã ra trường Tiến Sĩ Phật Học (Geshe) tại các Tu Viện Tây Tạng được Lama Zopa chính thức mời hoặc chỉ định, chỉ chuyên lo việc giảng dạy Phật Pháp và hướng dẫn tu học. Khi một Thầy Tây Tạng được FPMT chỉ định lo việc giảng dạy tại một Trung Tâm Tu Học. Thì vị này được gọi là Thầy Thường Trú (Resident Teacher) của Trung Tâm Tu Học đó. Tất cả các Thầy Thường Trú đều phải ký một Hợp Đồng (Geshe Agreement) với FPMT. Một số lớn các Cư Sĩ, sau khi đã học xong các chương trình căn bản Phật Pháp của FPMT, cũng có thể nộp đơn xin đi dạy và tổ chức các khóa tu ở các Trung Tâm Tu Học. Nếu được chấp thuận, các Cư Sĩ này được gọi là Giáo Viên của FPMT (FPMT Registered Teacher).

Vì cơ cấu điều hành mới mẻ của FPMT hoàn toàn khác xa với những hoạt động điều hành tại các tu viện Tây tạng nên trong thời gian mới thành lập đã có một số Thầy Tây Tạng không đồng ý với cơ cấu điều hành và đường lối của tổ chức FPMT và đã quyết định tách ra khỏi tổ chức này để lập ra những cơ sở riêng của mình. Với một lập trường vững chắc và với ý chí kiên trì, hai Thầy vẫn tiếp tục hoàn thành tâm nguyện của mình trong Phật sự thành lập đổ chức FPMT. Mãi đến năm 2013, chúng tôi mới có cơ hội đi thăm Tu Viện Sara ở Ấn Độ và ở trong tu viện này sáu tuần để tìm hiểu thêm về Phật Giáo Tây Tạng. Tu viện Sara có phạm vi rộng lớn và bề thế như một thành phố với hàng mấy chục ngôi chùa và hơn 4,000 tăng sĩ sống độc lập thành một đoàn thể chặt chẽ xa lìa thế giới bên ngoài. Lúc đó chúng tôi mới thực sự cảm nhận được những khó khăn và sự dũng mãnh của Lama Yeshe và Lama Zopa trong việc thành lập tổ chức FPMT.

FPMT là một tổ chức bất vụ lợi (Nonprofit Organization) có tầm vóc quốc tế.  Tổng Hành Dinh FPMT (FPMT International Office) ở Portland, Oregon gồm có 6 Tu Sĩ và Cư Sĩ  trong Ban Giám Đốc (FPMT Board of Directors) và hơn 20 Cư Sĩ trong Ban Điều Hành. Lama Zopa Rinpoche hiện là vị Thầy hướng dẫn tinh thần (Spiritual Director) của tổ chức này. Thầy Roger Kunsang, Thị Giả của Lama Zopa Rinpoche, là Giám Đốc Điều Hành của FPMT (President/CEO of the FPMT).

Tiền thu hàng năm của Tổng Hành Dinh FPMT phần nhiều là do Phật tử trên khắp thế giới cúng dường. Cũng như những năm trước, tiền thu năm 2017 của Tổng Hành Dinh FPMT lên đến gần 6 triệu dollars trong đó gần 5 triệu dollars đã được dùng cho các chương trình từ thiện, giúp đỡ chư Tăng Ni, dịch kinh, đúc tượng, thành lập lại Phật Giáo Tây Tạng ở Mông Cổ, v.v. (https://fpmt.org/wp-content/uploads/fpmt/annual-review/FPMT-AR-2017.pdf)

Theo nội quy của FPMT, các Trung Tâm Tu Học nhận chỉ thị từ Tổng Hành Dinh FPMT, nhưng hoàn toàn độc lập về quản trị, điều hành, và tài chánh. Thí dụ như Ban Điều Hành 2018 (Board of Directors) của Trung Tâm Tu Học Kadampa Center (https://kadampa-center.org/) ở Raleigh, NC gồm có 10 Cư Sĩ. Năm 2017, Kadampa Center nhận được 330,000 dollars tiền đóng góp và cúng dường từ Phật tử. Kadampa Center cũng như các Trung Tâm Tu Học thường dùng hết những tiền thu được trong năm cho việc tu học và các công tác từ thiện, xã hội. Tại Kadampa Center, khoảng 40% của số tiền thu được dùng để trả lương cho Thầy Thường Trú và các nhân viên. Hầu hết các nhân viên đều làm việc không lương ngoại trừ một số ít nhân viên có lương. Cũng như các Trung Tâm Tu Học khác, Kadampa Center luôn thông báo tiền chi thu hàng năm cho sở thuế và cho công và tránh hiểu lầm cũng như tạo được sự tín nhiệm của Phật tử Mỹ.

Mỗi Trung Tâm Tu Học của FPMT đều có một vị Cư Sĩ Giám Đốc coi về điều hành (Center Director) và một Cư Sĩ Quản Trị Viên coi về các chương trình tu học (Program Coordinator). Thông thường các chức vụ này một vài năm được bầu lại một lần. Những Cư Sĩ làm các chức vụ này thường có trình độ hiểu biết Phật Pháp cao và siêng năng hành trì để làm gương cho Phật tử. Để được điều hành các Trung Tâm Tu Học hay quản trị các chương trình tu học, những Cư Sĩ này phải được sự chấp thuận của Ban Điều Hành Trung Tâm Tu Học chỗ họ cư ngụ và phải được sự đồng ý của Lama Zopa Rinpoche. Những Phật tử tại gia này đã học qua các khóa căn bản Phật Pháp của FPMT và thường cũng là Giáo Viên của FPMT tại Trung Tâm Tu Học của mình. Hàng năm các Giám Đốc và các Quản Trị Viên của các Trung Tâm Tu Học thường họp lại để học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm, và tu bổ nguyên lý chỉ đạo cũng như nội quy của FPMT dưới hình thức Hội Đồng Bảo Vệ Truyền Thống Đại Thừa (Council for the Preservation for the Mahayana Tradition-CPMT). Để áp dụng hiệu quả hệ thống điều hành này, các Trung Tâm Tu Học cúng dường với hình thức trả lương hàng tháng cho các Thầy Thường Trú (Resident Teachers) cũng như đài thọ bảo hiểm sức khoẻ và các nhu cầu khác cho các vị này như nghỉ hè hàng năm có lương, chi phí di chuyển, v.v. Các Phật tử ở địa phương thì cúng dường cho Trung Tâm Tu Học của họ để Ban Quản Trị lo việc điều hành, tổ chức các khóa tu học, làm thiện nguyện, và lo cho Thầy Thường Trú, v.v.

Quyết định để hàng Cư Sĩ quản trị và điều hành các Trung Tâm Tu Học và chư Tăng Ni thì chỉ chuyên lo về giảng dạy Phật Pháp và hướng dẫn tu học của hai Thầy rất quan trọng cho sự thành công của tổ chức FPMT vì chư Tăng Ni có thể dành nhiều thời gian tu học cho chính mình cũng như trau dồi, cải thiện kỹ năng  giảng dạy ở các Trung Tâm Tu Học thay vì phải lo điều hành các cơ sở hay tự viện. Các Thầy Thường Trú có thể dành nhiều giờ trong ngày để học tiếng địa phương. Thí dụ như ở Kadampa Center, người Mỹ ở địa phương này đã chia phiên đến tận nhà dạy Anh Ngữ cho Thầy Thường Trú đến từ Ấn Độ lúc đó hoàn toàn không biết tiếng Mỹ nên chỉ trong vòng 7 tới 8 năm Thầy đã thuyết giảng Phật Pháp cho người Mỹ tại Trung Tâm Tu Học và các trường đại học ở North Carolina không cần người thông dịch.

Hàng Cư Sĩ cảm thấy được trọng dụng vì được giao trách nhiệm quản trị và điều hành các Trung Tâm Tu Học nên họ làm việc rất đắc lực và hiệu quả. Hơn nữa, người Cư Sĩ nói chung thường có nhiều kinh nghiệm giao dịch ngoài đời và hiểu biết về quản trị, điều hành, v.v. Ngoài ra những Cư Sĩ có khả năng cũng được dạy giáo lý tại các Trung Tâm Tu Học nên họ thường cố gắng học hỏi, sửa đổi thân tâm, sống một đời sống đạo đức để làm gương cho những Phật tử khác. Chúng tôi đã có nhiều cơ hội được tiếp xúc với Thầy Roger Kunsang, Thị Giả của Lama Zopa Rinpoche, hiện là Giám Đốc Điều Hành của Tổng Hành Dinh tổ chức FPMT (President/CEO of the FPMT). Theo chúng tôi nhận xét và học hỏi được từ Thầy Roger Kunsang thì mặc dù tổ chức FPMT có tới 164 Trung Tâm Tu Học Phật Pháp ở 40 quốc gia trên thế giới, nhưng ít có những tranh chấp hay bất đồng ý kiến giữa chư Tăng Ni và hàng Cư Sĩ một phần lớn là nhờ vào nội quy chặt chẽ của FPMT trong đó ai có nhiệm vụ của người nấy và theo đúng với khả năng và tâm nguyện của mình.

Tổ chức FPMT đã có thể phát triến nhanh chóng mà không hề bị giới hạn về nhân sự trong hơn 40 năm vừa qua đều nhờ nơi hàng Cư Sĩ được giao cho trách nhiệm thành lập, quản trị và điều hành các Trung Tâm Tu Học. Hiện nay mặc dù có 164 Trung Tâm Tu Học, nhưng FPMT chỉ có 57 Thầy Thường Trú. Nghĩa là có rất nhiều Trung Tâm Tu Học của FPMT trên thế giới không có Thầy Thường Trú vì vậy tất cả việc giảng dạy Phật Pháp, tổ chức tu học, và điều hành ở những trung tâm này đều do các Cư Sĩ đảm nhận. Vì là Phật tử tại gia nên các Cư Sĩ Giáo Viên thường dễ dàng đem đạo vào đời, và với kinh nghiệm bản thân họ có thể đắc lực giúp Phật tử giải quyết những khó khăn trong đời sống gia đình và xã hội.

Sinh hoạt của Các Trung Tâm Tu Học không giống như những sinh hoạt tại những ngôi chùa ở Tây Tạng hay Á châu, nhưng rất hợp với người Âu Mỹ và thế hệ trẻ. Các trung Tâm Tu Học thường được khởi đầu từ một cơ sở nhỏ được thành lập và điều hành bởi một vài Phật tử đặt trọng tâm vào các chương trình tu học. Thí dụ như Kadampa Center in Raleigh được thành lập 27 năm trước đây với một ngôi chánh điện rất nhỏ ngồi được khoảng 20 người ở tầng hầm của một chung cư. Sau đó vì số Phật tử đến tu học càng ngày càng đông, Trung Tâm Tu Học Kadampa đã mua một tiệm bán cá kiểng và sửa lại bên trong để làm chánh điện và nơi sinh hoạt, nhưng bên ngoài vẫn giữ hình thức như một cơ sở thương mại. Vì chánh điện mới của Kadampa Center vẫn tương đối nhỏ nên có nhiều Phật tử phải ngồi ở phòng ngoài chánh điện và theo dõi buổi sinh hoạt trên màn ảnh TV. Mặc dù với hoàn cảnh luôn thiếu chỗ ngồi như vậy, nhưng Ban Quản Trị Kadampa Center không có ý định xây chánh điện lớn hơn, mà đã dùng tất cả tiền Phật tử cúng dường hàng năm vào việc tu học và các hoạt động từ thiện, xã hội.

Nói chung người Phật tử Mỹ trong tổ chức FPMT không quan trọng vào hình thức ngôi chùa. Rất nhiều Trung Tâm Tu Học của FPMT hoạt động ở trụ sở mướn. Điều quan trọng của Phật tử Mỹ là chùa phải sạch sẽ và tiện nghi như mùa hè thì máy lạnh phải lạnh đủ và mùa đông thì trong chùa phải ấm áp, v.v. Để giảm thiểu chi phí, Kadampa Center cũng như nhiều trung Tâm Tu Học Khác thường đóng cửa và chỉ mở cửa khi có các buổi giảng hay có lớp tu học. Ngoài ra, các chương trình sinh hoạt hàng tuần và mọi thông tin đều được để lên trang mạng của chùa hay dùng emails vừa nhanh lại vừa đỡ tốn kém.

Người Phật tử Mỹ đến chùa mục đích chính là để tu học. Tại Kadampa Center, thường có những lớp học Phật Pháp và các buổi lễ được tổ chức nhiều ngày trong tuần với số Phật tử tham dự rất đông. Thí dụ như buổi lễ vào trưa Chủ Nhật hàng tuần thường có trên dưới 100 Phật tử tham dự. Thầy Thường Trú ở nhà riêng và chỉ đến Trung Tâm Tu Học  để giảng dạy khoảng 4 giờ mỗi tuần. Tất cả các buối lễ, các khóa tu, và các lớp học khác trong tuần đều do các Cư Sĩ Giáo Viên đảm nhiệm. Người Phật tử thường đọc sách nghiên cứu trước ở nhà nên có nhiều câu hỏi được sửa soạn trước dựa trên kinh điển cho vị giảng sư. Ngoài ra các Phật tử Mỹ thường có những buổi thảo luận sôi nổi về Phật Pháp dưới sự chứng minh của các Cư Sĩ Giáo Viên. Nhờ luôn có những sinh hoạt tích cực như vậy nên các Phật tử học hỏi được rất nhiều, và các giảng sư thì phải luôn trau dồi Phật Pháp và phương thức giảng dạy để đáp ứng nhu cầu học hỏi của Phật tử.

Tất cả 164 Trung Tâm Tu Học ở 40 quốc gia trên thế giới đều dùng chung hai cuốn kinh nhật tụng được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau. Muốn học hỏi và nghiên cứu thêm, Chư Tăng Ni và Phật tử có thể gởi mua sách và kinh điển của nhà xuất bản Wisdom qua cửa hàng Foundation của FPMT.  Ngoài sách và kinh điển, cửa hàng Foundation là cửa hàng trực tuyến của FPMT Văn Phòng Quốc Tế, cung cấp Phật tử trên toàn thế giới với các dụng cụ và tài liệu bổ sung cho chương trình giáo dục Phật Pháp của FPMT. Cửa hàng này được thành lập với mục đích giáo dục Phật Pháp chứ không nhằm mục đích thu lợi nhuận. Để thích ứng với thế hệ trẻ và cắt giảm chi phí, tất cả những thông tin của FPMT, các buổi giảng, các lớp tu học, kể cả cửa hàng Foundation, đều dùng trực tuyến hoặc qua internet.

Một trong những đặc thù của các Trung Tâm Tu Học trong tổ chức FPMT là áp dụng phương châm “Học Phật đạo, hành Bồ Tát đạo”. Điều này được thể hiện bởi rất nhiều các hoạt động xã hội và từ thiện. Thí dụ như tại Kadampa Center ở Raleigh, NC có nhiều hoạt động xã hội và từ thiện như tổ chức các buổi hiến máu tại Trung Tâm Tu Học, phát thức ăn cho người nghèo, tổ chức tu học cho tù nhân ở các trại tù, giúp những người mới ra khỏi tù có một đời sống mới, cứu trợ các nạn nhân thiên tai, lượm rác ngoài đường và chung quanh các hồ nước, hợp tác với các tôn giáo bạn trong các công tác xã hội và từ thiện, v.v.  Nhờ luôn có những hoat động từ thiện và xã hội rất hợp với người Mỹ, nên Trung Tâm Tu Học Kadampa càng ngày càng lớn mạnh. Hàng tháng tại Kadampa Center có các buổi Hướng Dẫn Phật Tử Mới Đến Chùa (Monthly New Member Orientation) để họ có cơ hội học hỏi về những gì nên làm và những gì không nên làm khi đến chùa. Trong các ngày lễ lớn, Phật tử thường tố chức ăn uống rất giản dị nấu sẵn từ nhà hoặc đặt ở nhà hàng, hay sau đó đi ăn chung với nhau ở nhà hàng. Tại nhà hàng, chư Tăng Ni thường ngồi chung bàn với các Phật tử không phân biệt. Phật tử Mỹ thường có tinh thần tự trọng và phục vụ rất cao. Điển hình là các Phật tử ở Kadampa Center thường đến chùa sớm để đậu xe ngoài đường xa chùa nhường chỗ đậu xe gần chùa cho các người mới, cũng như họ luôn ngồi ở phòng ngoài để nhường chỗ trong chánh điện cho người mới và cho các Phật tử đến muộn, v.v.

Chuyển Hóa Giáo Dục Phật Pháp

Để phố biến Phật Pháp trên toàn thế giới nhất là ở Âu Châu và Mỹ Châu, Phật Giáo Tây Tạng đã quyết định cho dịch tất cả các kinh điển từ tiếng Tây Tạng ra nhiều thứ tiếng kể cả các kinh điển mà trước đây được giữ kín trong các tu viện. Năm 1975, Nhà Xuất Bản Wisdom (Wisdom Publications) đã được thành lập dưới sự hướng dẫn của Lama Yeshe và Lama Zopa. Nhà Xuất Bản Wisdom (https://wisdomexperience.org/‎) là một tố chức bất vụ lợi. Trong vòng 30 năm, nhà Xuất Bản Wisdom đã xuất bản hơn 300 kinh sách với hơn 30 ngôn ngữ khác nhau của Phật Giáo Tây Tạng và của các tác giả nổi danh trên thế giới. Gần đây Trung tâm Tài Nguyên Số Phật Giáo (Buddhist Digital Resource Center – BDRC) và Internet Archive (IA) đã thông báo bộ sưu tập kinh điển Phật giáo Tây Tạng lớn nhất thế giới đã có mặt trên  Internet qua hệ thống IA. Trung Tâm BDRC cho biết “hệ thống kinh văn hoàn chỉnh nhất về Đức Phật đã có mặt dưới nhiều ngôn ngữ khác nhau”.

FPMT hiện có những chương trình giáo dục Phật Pháp được soạn thảo dựa vào hoàn cảnh xã hội và trình độ học vấn của Phật tử tại những nước tân tiến. Tuy hình thức khác xa với những chương trình giảng dạy trong các tu viện, nhưng nội dung thì không khác biệt và vẫn giữ gìn được những truyền thống tốt đẹp của Phật Giáo Tây Tạng. FPMT hiện có những lớp học đặt nặng về phần thực hành từ thấp lên cao để chư Tăng Ni và Phật tử có thể học qua trang mạng), hay tại những Trung Tâm Tu Học. Các chương trình này, hoàn toàn miễn phí, có thể được tóm lược như sau.

Lớp học Thiền Phật giáo 101 (Buddhist Meditation 101) là lớp học đầu tiên để người Tây Phương thấy được sự lợi ích của Phật Pháp qua thiền tập. Từ đó họ sẽ tích cực tu học dựa theo các lớp học từ thấp lên cao. Các Phật tử sau khi tốt nghiệp Chương Trình Căn Bản (Foundational Programs) hoặc Chương Trình Sâu Rộng (In-Depth Programs) tại một Trung Tâm Tu Học có thể xin làm Giáo Viên của FPMT (FPMT Registered Teacher) để dạy các lớp Introductory Courses, Foundational Programs, and In-Depth Programs tại các Trung Tâm Tu Học FPMT trên thế giới.

Ngoài các lớp học căn bản ở trên, hàng năm, FPMT thường có nhiều khóa tu học dài hạn (Retreats) được tổ chức tại hơn 20 Trung Tâm Tu Học Dài Hạn (Retreat Facilities) và các cơ sở khác. Thí dụ như chương trình Light of the Path teachings tại Blue Ridge Assembly in Black Mountain, North Carolina (https://kadampa-center.org/light-path-retreat-2017). Trong những năm đầu, chương trình Light of the Path teachings kéo dài hai tuần và có khoảng 200-300 Tăng Ni cùng Phật tử từ nhiều quốc gia đến học. Kể từ năm 2017, chương trình này được tăng lên bốn tuần. Trong những khóa tu học dài hạn này, các Phật tử có cơ hội được sống như một vị Tăng như ăn chay, một ngày ăn sáng nhẹ và một bữa chính vào buổi trưa, thọ Bát Quan Trai Giới, không nói chuyện ngoài đời và dành hết thì giờ trong ngày cho việc nghe giảng Phật Pháp và tu tập. Vấn đề ăn uống trong các khóa tu dài hạn rất giản dị. Tại khóa tu Light of the Path ở Blue Ridge Assembly in Black Mountain, việc nấu ăn chay do người Mỹ tại Blue Ridge Assembly đảm nhận. Vì những người Mỹ này chưa nấu chay bao giờ nên thức ăn rất giản dị và có thể nói là hơi khó ăn, nhưng chư Tăng Ni và Phật tử tham dự khóa tu học luôn hoan hỷ. Thật là đáng quý.

Tổ chức FPMT đã góp phần đào tạo được rất nhiều Tăng Ni trên toàn thế giới trong hơn 40 năm qua. Hầu hết các Phật Tử khi muốn xin xuất gia đều phải có một nguồn tài chánh để tự lo cho mình chứ không nhờ vào sự cúng dường của Phật tử. Trong lúc chúng tôi viết bài này thì Lama Zopa đang làm lễ xuất gia cho 7 Phật tử người Tây Phương ở Trung Tâm Tu Học Tu Viện Nalanda tại Pháp. Riêng ở Mỹ, chư Tăng Ni người Mỹ hầu hết đều quen tiếp xúc và nói chuyện trước công chúng trước khi xuất gia nên các vị này thường có khả năng thuyết giảng Phật Pháp và hay được mời đi thuyết giảng và tổ chức các khóa tu ở các Trung Tâm Tu Học. Hệ thống tổ chức và sinh hoạt hoàn toàn mới mẻ này của FPMT đã là nền tảng để phát triển Phật Giáo Tây Tạng nhất là phái Mũ Vàng ở Âu Châu, Mỹ Châu, và các nơi khác trên thế giới trong hơn 50 năm nay.

Phật Pháp đặt trọng tâm dùng từ bi và trí tuệ để chuyển hóa tâm nên rất hợp với người Mỹ và thế hệ trẻ người Việt sanh ra và lớn lên tại Mỹ. Theo như chúng tôi nhận xét, người Mỹ biết đến đạo Phật qua tổ chức FPMT phần lớn là nhờ vào các lớp học Phật Pháp và các khóa tu học được tổ chức tại các Trung Tâm Tu Học. Một số lớn người Mỹ đã quyết định theo đạo Phật để trở thành Phật tử tại gia hay xuất gia khi họ nhận ra được lợi ích của Phật Pháp. Chúng tôi đã có cơ hội được tiếp xúc với nhiều Phật tử người Mỹ và nhận thấy họ là những Phật tử thuần thành và luôn tìm cơ hội để học hỏi, thực hành Phật Pháp. Thí dụ như các Phật tử Mỹ tại Trung Tâm Tu Học Kadampa Center, North Carolina, theo lời đề nghị của Lama Zopa Rinpoce, đang cùng nhau tụng 100,000 lần bài kinh cầu nguyện 21 Bồ Tát Taras (Hóa thân của Phật Quán Thế Âm) dài 108 dòng để cầu nguyện cho chương trình tu học bốn tuần Light of the Path teachings tại Blue Ridge Assembly in Black Mountain, North Carolina được dự định vào ngày 23 tháng 8 năm 2020) được thành tựu viên mãn.

Tổ chức FPMT đã tạo cơ hội và điều kiện cho nhiều người Mỹ và các dân tộc khác trên thế giới biết và đến với đạo Phật. Về phần hình thức sinh hoạt thì có khác với những sinh hoạt trong các tu viện ở Tây Tạng và Ấn Độ để có thể dễ dàng hòa nhập vào xã hội của các nước tân tiến, nhưng về nội dung thì không khác biệt và vẫn giữ gìn được những truyền thống tốt đẹp của Phật Giáo Tây Tạng. Cũng nhờ tổ chức FPMT mà người Mỹ và các quốc gia khác trên thế giới đã biết đến và góp phần gìn giữ những nét đẹp của văn hóa cổ truyền Tây Tạng. Tại các Trung Tâm Tu Học, Phật tử người Mỹ hàng năm đứng ra tổ chức ngày Tết Tây Tạng cổ truyền rất trang nghiêm như là ngày Tết của họ. Các Phật tử ở những trung tâm này cũng đã tích cực tham dự những cuộc biểu tình đòi quyền công dân cho người dân ở Tây Tạng, v.v.

Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã dũng mãnh và khéo léo chuyển hóa Phật Giáo Tây Tạng để hòa nhập vào xã hội của các quốc gia trên thế giới. Phái Gelugpa và các phái khác của Phật Giáo Tây Tạng như phái Nyingmapa, Kadampa, Kagyu, Sakya cũng có nhiều cơ sở tự viện của các Thầy Tây Tạng tại Mỹ và các quốc gia khác. Những cơ sở này cũng rất thành công trong việc hòa nhập vào xã hội của các nước tân tiến để hoằng dương Phật Pháp.

Tháng 6 năm 2010, sau khi đọc loạt bài về báo chí Phật giáo Việt Nam từ 1929-2008, cụ Nguyễn Minh Hạnh, 83 tuổi, ở 98 đường Đống Đa, phường 4, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang đã gửi cho tôi bản photocopy tờ Tinh Tấn - cơ quan ngôn luận của Hội Phật giáo Cứu quốc Nam Bộ. Trong đó có số đặc biệt ra ngày 25-7-1949, tường thuật về lễ kỷ niệm ngày Đản sinh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni do Hội Phật giáo Cứu quốc Nam Bộ tổ chức cách nay 62 năm.

Ngày mùng 8-4-Kỷ Sửu, tức ngày 5-5-1949, Ban Chấp hành Phật giáo Cứu quốc Nam Bộ hợp cùng Phật giáo Cứu quốc liên tỉnh Mỹ Tho - Sa Đéc tổ chức rất long trọng ngày lễ sinh nhật Đức Giáo chủ Thích Ca Mâu Ni tại một địa điểm ở Nam Bộ (báo không nói địa điểm cụ thể vì lý do bảo mật và bảo đảm an toàn cho địa phương này). Các cấp Dân - Quân - Chính, đồng bào, Phật tử đến tham dự trên 6.000 người.

Từ 12 giờ đến 17 giờ, đồng bào địa phương, Phật tử các xã, các huyện lân cận tấp nập kéo đến dự lễ. Sư ni, huynh đệ, từng đoàn 15, 20 người, đoàn này tiếp nối đoàn kia vào tinh xá kính cẩn lễ Phật và cầu siêu cho chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn. Tại phòng triển lãm, số người ra vào mỗi phút một tăng đông; họ lặng ngắm bức chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, bức tranh "Tăng già xả thân vì Tổ quốc, vì Phật pháp"; họ trầm trồ bức tranh "Chuông chùa hóa thân lựu đạn" và những tấm ảnh Vệ quốc quân. Gần 17 giờ, tất cả kéo vào sân vận động, cờ đỏ sao vàng phấp phới từ Khải hoàn môn đến khán đài.

Tấm màn xanh trên khán đài kéo vẹt ra hai bên. Dưới khán đài dàn nhạc đã chuẩn bị, quan khách Quân - Dân - Chính đã an tọa trước khán đài; các cha mẹ, chị đỡ đầu chiến sĩ nối theo sau; một đơn vị Vệ quốc quân sắp hàng, đứng sau cùng, đối diện lá quốc kỳ to lớn và khán đài; chung quanh toàn đồng bào địa phương và Phật tử đến dự lễ.

Trên khán đài, một chỉ huy Vệ quốc quân oai nghiêm ra lệnh: "Nghiê..ê…êm!..." tất cả đứng dậy, kẻ yếu vía, giật mình trước tiếng hô vang như sấm của người chiến sĩ chỉ huy và tiếng "rắp" nghiêm khắc, cứng rắn của mấy chục tay súng, bồng lên chào cờ. Bản Quốc thiều trổi lên, lòng người rạo rực, mắt dõi theo lá cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió.

Trong phút mặc niệm chiến sĩ tử trận, các mẹ, các chị đỡ đầu cảm xúc lại càng cảm xúc thêm vì bản đàn nhạc Chiêu hồn tử sĩ bi thiết; nhiều bà không thể cầm được nước mắt.

Tràng hoa đặt xong trên đài chiến sĩ trận vong, ông Ủy viên phụ trách Nội vụ được bầu làm chủ toạ khai mạc cuộc lễ.

Đứng trước máy phóng thanh, ông Tam Không, Hội trưởng, đại diện PGCQ Nam Bộ và Liên tỉnh Mỹ Tho - Sa Đéc đọc diễn văn khai mạc1. Với giọng đều đều, rảnh rang, ông nhắc lại lòng yêu nước của các bậc Tăng già tiền bối trải qua các thời đại; ông giải thích ý nghĩa, thành tích tham gia kháng chiến của Phật tử Nam Bộ: "Phật giáo đồ Nam Bộ đã khai sát giới, gia nhập Vệ quốc quân và dân quân, cầm súng mang dao, giết giặc trừ gian. Đặc biệt tỉnh Bạc Liêu, số hội viên PGCQ chỉ hơn 5.000 mà đã sung vào dân quân đến 1.500 người. Ngoài ra còn có nhiều nhà sư cùng với Vệ quốc quân ba khu Nam Bộ đền nợ nước tại chiến trường.

Việc cứu giúp đồng bào, đỡ đầu bộ đội, ủng hộ quân nhu, Phật giáo đồ đã thực hành đúng lý tưởng lợi tha, bác ái của Đức Phật. Chuông, khánh là của quý nhà chùa mà tỉnh Mỹ Tho đã hiến cho Binh công xưởng 50 đại hồng chung, 14 tiểu hồng chung và tỉnh Sa Đéc trên 2 tấn đồ đồng.

Toàn Nam Bộ số hội viên PGCQ có chừng 30.000 mà đã ngót 1.000 cha, mẹ, chị tham gia Hội mẹ chiến sĩ đỡ đầu chiến sĩ…".

Để kết thúc, ông nhấn mạnh lòng kính mến của Phật giáo đồ Nam Bộ đối với Cụ Hồ - vị Bồ tát noi gương Đức Phật Thích Ca hoàn toàn hy sinh cho dân tộc. Ông hô to khẩu hiệu: "Thích từ phụ bất tử" tất cả Phật giáo đồ cúi đầu quán tưởng Đức Từ Phụ. Tiếp theo khẩu hiệu "Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muôn năm" và "Hồ Chí Minh muôn năm", muôn năm vang một góc trời từ tận đáy lòng, trái tim tất cả già trẻ, gái trai tung ra.

Tiếp sau, đến mục chiêm ngưỡng Phật. Quan khách, toàn thể đồng bào, Phật tử đứng dậy nghiêm trang trông lên khán đài. Một luồng hào quang phóng ra xung quanh tượng Phật, tất cả cúi đầu, bái vọng.

Cư sĩ Bạch Liên, Phó Hội trưởng PGCQ Nam Bộ đọc diễn văn giáo lý. Ông nhắc lại tiểu sử Đức Phật Thích Ca và giải thích giáo pháp Ngài; Ông nêu cao lý tưởng và kết quả các cuộc cách mạng do Ngài khởi xướng và tự chủ trương. Ông giải thích rõ tôn chỉ đạo Phật. Ông nhấn mạnh: Phật Tổ cho cái khổ là gốc nhưng KHÔNG CÓ QUAN NIỆM YẾM THẾ. Ông cho rằng buổi Lễ Phật đản hôm nay, chính ý là tỏ lòng tôn kính và nhớ ơn Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ngoài ra còn nêu cao giáo lý chân truyền và nhất là ĐỨC HẠNH của đấng Đại từ, Đại bi, làm cho tâm hồn mỗi Phật giáo đồ sáng thêm lên để hăng hái phụng sự dân tộc và nhân loại.

Ông Ủy viên phụ trách Nội vụ tán dương Đức Phật, vì "Ngài hoàn toàn hy sinh để cách mạng xã hội giai cấp bóc lột; Ông dẫn câu kinh "Dục tri tiền thế nhân, kim sinh thọ giả thị…" để giải rõ Cách mạng Tháng 8 thành công là do sự hy sinh bao nhiêu xương máu của các nhà ái quốc chân chính". Ông kêu gọi Phật giáo đồ hãy noi gương Đức Phật, tích cực hy sinh, tận trừ bọn tham tàn đế quốc, thực dân.

Ông Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Sa Đéc, nguyện làm một đệ tử chân thành của Đức Thích Ca, mặc dầu ông không ăn chay và tụng kinh. Ông quyết thực hành đúng ý niệm Phật, vì dân tộc đau khổ, hy sinh tất cả để tiêu diệt bọn thực dân phản động và bè lũ.

Ông đại diện Đảng Dân chủ giải thích thấu đáo ý nghĩa những chữ Từ bi, Bác ái.

Ông đại diện đạo Cao Đài phát biểu cuối cùng: "Tôi rất hân hạnh được dự cuộc lễ và rất hài lòng vì tinh thần đại đoàn kết Quân - Dân - Chính và tôn giáo với dân tộc".

Ông Lô Hoàng Minh thay mặt Ban Huấn luyện khóa Sư Trí Quang giới thiệu các Thụ huấn viên với đồng bào.

Trước tượng ảnh Đức Thích Ca Mâu Ni, trước quốc kỳ và đồng bào, tất cả Thụ huấn viên nguyện đem hết tâm lực phụng sự dân tộc trong giai đoạn tích cực cầm cự chuẩn bị tổng phản công. Một tràng pháo tay hoan nghênh các cán bộ thanh niên Phật tử, nhiệt thành với nhiệm vụ.

Cuộc lễ rất long trọng, thân ái, để thêm phần vui tươi và dồi dào ý nghĩa Phật giáo kháng chiến, Ban Ca kịch hiến khán giả một vở kịch đặc sắc nhan đề "Cởi áo cà sa, xông ra chiến trường".

Dàn nhạc trổi lên những bản vui tai cho khán giả xả hơi, chờ đợi. Khán đài đổi thành sân khấu. Tất cả hành vi, ngôn ngữ của giặc Pháp và tay sai, sỉ nhục Tăng già, đệ tử ở một ngôi chùa vùng tạm chiếm, được diễn lại đúng trăm phần trăm. Cử chỉ của vị Tăng già và các đệ tử giật súng giặc giết giặc trong lúc chúng say sưa, lên đường gia nhập Vệ quốc quân, đồng bào khán giả rất thống khoái cử chỉ cương quyết, dũng cảm ấy.

Giải tán vào 12 giờ khuya, ai nấy ra về, hiểu rõ đạo Phật và cảm khích lòng yêu nước của Tăng Ni, Phật tử.

Tam Không tức Hòa thượng Thích Minh Nguyệt, thế danh Lý Duy Kim, sinh năm 1907 trong một gia đình trung nông tại xã Tân An, tỉnh Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương). Xuất gia năm 1919, tham gia cách mạng năm 1940. Trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954, Hòa thượng hoạt động khi chìm khi nổi, ẩn hiện khắp mọi nơi với bí danh Tam Không. Liên tục sau đó Ngài được bầu là Hội trưởng Hội PGCQ Nam Bộ, trụ sở tại chùa Ô Môi (Đồng Tháp Mười) v.v…Trong kháng chiến chống Mỹ, Hòa thượng hoạt động bí mật, bị bắt năm 1960 đày ra Côn Đảo với mức án 20 năm tù khổ sai. Năm 1974 Ngài được trả về vùng giải phóng Lộc Ninh, tiếp tục hoạt động. Sau ngày 30-4-1975, Ngài là Chủ tịch Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước thành phố Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch UBTƯ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Là Chủ nhiệm Báo Giác Ngộ - tiếng nói của Phật giáo yêu nước, Hòa thượng Thích Minh Nguyệt là người có công trong cuộc vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam năm 1976-1981. Tháng 11 năm 1981, GHPGVN thành lập, Hòa thượng Thích Minh Nguyệt được suy cử ngôi vị Phó Pháp chủ Thường trực Hội đồng Chứng minh Trung ương. Ngài mất ngày 18-1-1985.