Truyền Thống Của Công Đoàn Việt Nam

Truyền Thống Của Công Đoàn Việt Nam

Trung Quốc và Việt Nam là quốc gia láng giềng, có nhiều phong tục, truyền thống văn hóa khá tương đồng, đặc biệt là Tết Nguyên đán. Tuy nhiên, không hoàn toàn giống nhau, mỗi quốc gia vẫn giữ được những bản sắc văn hóa rất riêng dành cho mình.

Việt Nam nổi tiếng vì có một trong những món ăn lành mạnh và đa dạng nhất trên thế giới. Người phương Tây thường nghĩ bánh là một món tráng miệng ngọt ngào nhưng điều đó không phải lúc nào cũng xảy ra ở Việt Nam. Tại đây, một loạt các loại bánh mặn ngon có thể được tìm thấy trên khắp đất nước.

Nguyên liệu chính cho bánh chưng là gạo nếp, đậu xanh, và một miếng thịt ba chỉ heo, nửa nạc nửa mỡ. Hạt tiêu và muối được sử dụng để ướp thịt lợn và làm tăng hương vị của đậu xanh. Những chiếc lá dong được đặt vuông góc trên bàn. Gạo nếp đã được ngâm được đặt ở giữa lá, tiếp đó đến đậu xanh.  Miếng thịt lợn hình chữ nhật được đặt vào giữa đậu xanh và tạo thành một vòng tròn. Người gói bánh sử dụng bàn tay để bọc lá thành hình vuông và buộc nó bằng dây lạt. Đôi khi cũng có những người sử dụng khuôn vuông để làm cho quá trình làm bánh hiệu quả hơn.

Sau bánh được gói xong, sẽ được luộc trong một cái nồi lớn trong hơn 10 giờ. Lửa luôn được trông giữ cẩn thận  để bánh chưng sẽ có hương vị ngon nhất.

Trộn gạo nếp và bột gạo với nướ sau đó bột được nhào thật kỹ. Người làm bánh sẽ cắt bột thành những vòng tròn nhỏ, đặt chúng vào lá chuối và làm cho chúng thành một hình phẳng và tròn. Những chiếc bánh này thường được hấp trong khoảng bảy phút. Sau đó, bánh đã sẵn sàng để ăn. Giò nạc sẽ được đặt ở giữa hai miếng bánh giầy để có hương vị đặc biệt hơn. Hoặc cũng có nơi đầu bếp đôi khi thêm đậu xanh làm nhân trước khi hấp để bánh ngon hơn.

Bánh được gói trong nhiều lớp lá. Bánh tét có nhân đỗ xanh và đỗ vàng óng là liên quan đến vùng quê xanh, chăn nuôi gia súc và sự bình yên của làng vào mùa xuân năm mới. Tất cả những ý nghĩa này tôn vinh sức lao động của con người, sự hài hòa của trời và đất, sự cân bằng của nhân loại và tự nhiên.

Bánh tét và bánh chưng thực sự khá giống nhau. Tuy nhiên, thay vì dùng lá dong để gói, lá chuối được dùng để gói bánh tét. Khi gói, đầu bếp làm cho bánh tét thành hình trụ. Sau đó, bánh được luộc trong nhiều giờ cho đến khi chúng sẵn sàng để ăn.

Bên cạnh nhân thịt lợn, bánh tét còn có các loại nhân khác như chuối, đậu xanh, đậu đen…Màu sắc của bánh cũng khác nhau, đầu bếp có thể sử dụng nước ép của các loại lá cây địa phương để làm cho màu trắng ban đầu của gạo biến thành màu tím, xanh lá cây và cam.

Gạo nếp được rửa sạch, để ráo nước và nghiền bằng cối đá, sau đó tinh bột gạo được lọc và lưu lại. Tinh bột gạo được nghiền lại cho đến khi nó trở nên mềm và mịn. Đợi 15 ngày cho bột tinh bột gạo khô. Nhân bánh bao gồm các hạt đậu xanh ngâm và sau đó được nghiền, trộn với đường và lát dừa. Banh phu thê thường được cắt thành bốn miếng khi ăn, vì vậy bốn hạt sen được đặt trong bốn góc của miếng bánh.

Loại bánh truyền thống này được gói trong hai lá. Lớp bên trong là lá chuối vì nó không dính. Một lớp bên ngoài khác là lá dừa làm thành một hộp vuông nhỏ. Bánh phu thê sau đó được đun sôi trên bếp củi trên ngọn lửa nhỏ. Vì bột tinh bột gạo, bánh trong suốt, mềm và có độ giòn. Hơn nữa, bạn có thể thưởng thức vị giòn từ những lát dừa và cảm giác ngọt ngào từ đậu xanh và đường khi ăn bánh phu thê.

Bạn đang tìm kiếm những thứ ngon để ăn khi ghé thăm Nhật Bản? Hãy theo hướng dẫn ẩm thực này bởi nó bao gồm tất cả...

Theo Hàn Ly (Theo christinas) ([Tên nguồn])

Nghề gốm Nghề gốm ở Việt Nam đã có từ lâu. Ở miền Bắc thì có gốm Bát Tràng (Hà Nội), gốm Đông Triều (Quảng Ninh), gốm Phù Lãng (Bắc Ninh), gốm Thổ Hà (Bắc Giang)... Ở miền Nam có gốm Sài Gòn, gốm Bình Dương, gốm Biên Hoà (Đồng Nai)..

Ngày nay sản phẩm gốm của Việt Nam rất phong phú, từ những vật nhỏ như lọ đựng tăm, gạt tàn thuốc lá... những sản phẩm cỡ trung bình như lọ hoa, tượng phật, thiếu nữ, bộ ấm trà, cà phê, bát, đĩa, chậu cảnh đến những sản phẩm cỡ lớn như lọ độc bình, đôn voi... Những màu men gốm được ưa chuộng là men ngọc, men da lươn, men vàng nhẹ, men chảy. Hoạ tiết trên sản phẩm được gắn liền với những nét quen thuộc trong đời sống như chú bé thổi sáo ngồi trên mình trâu, cây đa cổng làng, mái chùa hồ sen, thiếu nữ gảy đàn... Hàng gốm Việt Nam đã có mặt trên nhiều thị trường quốc tế.

Cây tre, cây song và cây mây là đặc sản của xứ sở Việt Nam nhiệt đới. Ba loại cây này trở thành nguồn nguyên liệu vô tận của những người thợ thủ công làm hàng mây tre đan. Hàng mây tre đan Việt Nam đã có mặt ở Hội chợ Pari năm 1931. Đến nay, hơn 200 mặt hàng này đã đi khắp năm châu, được khách hàng ưa chuộng. Với bàn tay khéo léo của những người thợ, những thân cây tưởng như vô dụng đã trở thành những đĩa bày hoa quả, lẵng hoa, bát hoa, làn, giỏ, khay, lọ hoa, chao đèn, bộ salon tủ sách... Ưu điểm của hàng mây tre đan là: nhẹ, bền, không mọt.

Trên thế giới nhiều nước làm hàng sơn mài. Một số nước trồng được cây sơn, nhưng chỉ có cây sơn Việt Nam trồng ở đất Phú Thọ là có giá trị nhất. Nhựa cây sơn Phú Thọ tốt hơn hẳn nhựa sơn trồng ở nơi khác. Chính vì vậy, hàng sơn mài Việt Nam đã nổi tiếng đẹp lại bền.

Thế kỷ thứ 18 ở Thăng Long (Hà Nội hiện nay) đã có phường Nam Ngư chuyên làm hàng sơn. Ban đầu sơn mài chỉ có bốn màu: đen, đỏ, vàng, nâu. Dần dần do khoa học kỹ thuật phát triển, bảng màu của sơn mài ngày càng phong phú, tạo cho sản phẩm sơn mài đẹp lộng lẫy và sâu thẳm. Ngày nay các mặt hàng sơn mài như tranh treo tường, lọ hoa, hộp đồ nữ trang, hộp đựng thuốc lá, khay, bàn cờ, bình phong... đã trở thành mặt hàng không thể thiếu trên thị trường trong nước và quốc tế.

Người thợ khảm dùng những mảnh có vân ngũ sắc vỏ trai, vỏ hến, ốc biển để khảm (gắn) lên các đồ vật. Công việc của thợ khảm khá tỷ mỷ và qua nhiều công đoạn: Vẽ mẫu tranh, mài, cưa, đục mảnh, khảm (gắn) lên tranh rồi lại mài nhẵn và đánh bóng. Bức tranh khảm hiện lên trên mặt đồ vật với nhiều màu sắc lung linh. Từ chiếc hộp gỗ, cái khay, bàn cờ, mặt bàn, thành ghế, cánh tủ, bình phong, tranh treo tường... bằng gỗ đều có thể khảm trai. Việt Nam có 3.260km bờ biển, nguồn nguyên liệu của nghề khảm trai là vô tận.

Từ những khối đá cẩm thạch, người thợ chạm khắc đá đã làm ra nhiều sản phẩm có giá trị như vòng đeo tay, gạt tàn thuốc lá, tượng phật, tượng thiếu nữ, hoa lá và cây cảnh, các con vật đáng yêu như mèo, chim công...

Nghề chạm khắc đá có ở nhiều nơi nhưng nổi tiếng là ở Đà Nẵng. Dưới chân núi Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng) là các làng Quan Khái, Hoà Khê, dân làng có nghề chạm khắc đá truyền thống.

Người thợ thêu Việt Nam rất khéo tay, họ biết cách hoà sắc hàng chục loại chỉ mầu cho một bức thêu.

Các loại hàng thêu rất đa dạng, mẫu thêu ngày càng phong phú: Hoa sen, hoa cúc, rồng phượng, đôi chim tùng hạc, đôi chim uyên ương, phong cảnh, chân dung... Tùy theo ý nghĩa của từng đồ dùng mà người thợ thêu chọn mẫu. Có loại mẫu thêu dành cho áo sơ mi, có loại mẫu thêu dành cho áo gối, có loại để thêu áo kimono, có loại để thêu khăn trải bàn, khăn phủ giường, tranh treo tường...

Nghề thêu ren có từ lâu đời, ở nhiều địa phương nhưng có lẽ bắt nguồn từ làng Quất Động (Hà Tây). Trong danh mục các tên phố cổ của Hà Nội có tên phố Hàng Thêu chuyên bán các đồ thêu (nay là đoạn cuối phố Hàng Trống giáp với phố Lê Thái Tổ). Ngoài ra, hiện nay hệ thống cửa hàng tranh thêu lụa XQ cũng giúp du khách hiểu thêm và cảm nhận một phần về văn hóa Việt Nam và tài năng của những người thợ thêu.

Nghề làm đồ gỗ mỹ nghệ đã có ở Việt Nam từ lâu và đã đạt đến trình độ khá cao. Sau một thời gian mai một, từ đầu những năm 80, nghề làm đồ gỗ mỹ nghệ lại được phát triển mạnh mẽ vừa phục vụ nhu cầu trong nước, vừa để xuất khẩu. Các mặt hàng gỗ mỹ nghệ chủ yếu là tượng gỗ, bàn ghế, tủ, sập (giường)... Các công ty gỗ mỹ nghệ trong cả nước với đội ngũ nghệ nhân và thợ lành nghề đã tạo ra nhiều sản phẩm vừa có giá trị sử dụng, vừa có giá trị nghệ thuật. Nghề kim hoàn Từ thế kỷ thứ 2, người Việt Nam đã biết dùng vàng bạc để làm đồ trang sức. Trong nghề kim hoàn có ba nghề khác nhau nhưng liên quan mật thiết với nhau. Đó là nghề chạm: Chạm, trổ những hình vẽ, hoa văn trên mặt đồ vàng, đồ bạc. Nghề đậu: Kéo vàng, bạc (sau khi đã nấu chảy) thành sợi dài rồi uốn ghép thành những hình hoa, lá, chim muông, gắn lên các đồ trang sức. Nghề trơn: Chuyên đánh vàng, bạc thành những đồ trang sức mà không cần chạm trổ.

Các mặt hàng từ vàng, bạc rất đa dạng: Nhẫn, vòng, dây chuyền, hoa tai, bộ đồ ăn (dao, phuốc-xét, thìa) bộ ly uống rượu, khung gương, hộp phấn, lược, chân cây nến... và đã được xuất khẩu đi nhiều nước. Nghề vàng được bắt nguồn từ làng Định Công (Hà Nội) và nghề bạc bắt nguồn từ làng Đồng Xâm (Thái Bình). Hà Nội ngày nay vẫn có phố Hàng Bạc, phố này từ xa xưa chuyên chế tác và mua bán vàng bạc. Ngày nay các cửa hiệu vàng bạc có ở khắp nơi trên đất nước.